Translate

Hỗ Trợ Trực Tuyến
tiendatdongphuonggiamdocdonghanhviettraveldieuhanhdonghanhviet
tiendatdongphuonggiamdocdonghanhviettraveltiendatdongphuong

CÔN ĐẢO

Côn Đảo là một quần đảo xa xôi trên biển đông, nơi đã từng là “địa ngục trần gian” giam cầm những người việt nam yêu nước chống lại chế độ thực dân pháp và chính quyền sài gòn trong suốt 113 năm ( 1862 – 1975 ). Ngày nay, côn đảo đã chuyển mình, là thiên đường du lịch xanh với những bờ cát trắng, nước biển trong xanh, rừng nguyên sinh và núi non hùng vĩ. Nhũng đảo nhỏ bao quanh cũng là điểm hẹn lí tưởng cho các bạn trẻ yêu thích dã ngoại, bơi lặn  …… hay đi tìm một không gian lãng mạn riêng tư.
Cách vũng tàu 97 hải lý, côn đảo là một quần đảo bao gồm 16 đảo nằm ở 1060 36’ kinh đông và 8046’ vĩ bắc, đảo lớn nhất là côn sơn có diện tích 51,5 km2 , với chiều dài khoảng 15 km và chiều rộng từ 1 – 3 km. Đảo có địa hình đồi núi, hầu hết được phủ rừng, ngọn núi cao nhất là đỉnh thánh giá cao 577m.
Côn đảo có khí hậu nhiệt đới với hai mùa rõ rệt trong năm : mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 (gió mùa đông bắc) và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 (gió mùa tây nam). Lượng mưa trung bình là 2100 mm/ năm (cao nhất trong  tháng 10), nhiệt độ tung bình là 270C. nếu đến côn đảo bằng máy bay, chúng ta có thể đi bất cứ lúc nào trong năm, nếu ra đảo bằng tàu thủy,  thì thời gian tốt nhất từ tháng 3 đến tháng 7 – đây là mùa biển êm.
Lịch sử :
·  1284 : nhà thám hiểm marco polo ghé côn đảo để tránh bão
·  Đầu thế kỷ 16, những thủy thủ bồ đào nha lần đầu đặt chân lên côn đảo
·  1783 : nguyễn ánh bị truy đuổi ra tận côn đảo.
· 28/11/1787 : linh mục bá đa lộc thay mặt chúa nguyễn kí hiệ p ước versailles, công nhận một số quyền lợi của pháp tại côn đảo
·  28/11/1861 : thực dân pháp đánh chiếm côn đảo.
· 20/3 đến 19/4/1895 : nhà soạn nhạc lừng danh người pháp là camille saint saens hoàn thành 3 chương cuối của cở nhạc kịch brunenhilda tại côn đảo.
· 1862 đến 1975 : con đảo là nơi giam cầm những người yêu nước chống lại chế độ thực dân pháp và chính quyền sài gòn
· 1976 đến nay : côn đảo là điểm hẹn của những cựu tù và những người yêu thích thiên nhiên

 CẦU MA THIÊN LÃNH

Khoảng năm 1930, thực dân pháp mở con đường từ ngã ba núi Chúa qua đèo ông Đụng để đến sở ông Câu.
Sở Ông Câu nằm phía sau núi Chúa từ những năm 1930 thực dân Pháp bắt tù nhân leo lên những triền núi cao, đốn cây lớn rồi thả xuống mé biển theo những đường mòn. Nhiều người đã bị cây đè chết hoặc nát chân nát tay vì không tránh kịp những cây gỗ lớn từ trên núi lao xuống. 
Khi mở con đường nay bọn chúa ngục bắt tù nhân vác đá xây trên đèo ông Đụng một cây cầu. Do địa thế núi cheo leo hiểm trở, tù nhân ăn uống thiếu thốn đói khát phải khiêng đá xây mố cầu bị chết hại trước sau tới 356 người mà vẫn chưa làm xong nỗi. Cách mạng tháng tám thành công công trình bị bỏ dỡ dang (2 mố cầu).
Cái tên Ma Thiên Lãnh để gọi hai mố cầu đắp dang dở bằng máu sương của 356 con người, có lẻ do địa thế núi hiểm ác nước suối lại rất độc, quá trình tù nhân làm khổ sai còn bị đá đè cây đổ..v..v.. từ đó tù nhân mới lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên địa thế hiểm ác khó lên xuống, phỏng theo truyện tàu:” Tiết Nhơn Quí Chinh Đông” xưa đặt tên cho cầu này.
Thời ấy để tố cáo chế độ thực dân pháp đày ãi tù nhân làm khổ sai cực kỳ dã mang tù nhân còn sáng tác bài hát: Cầu Ma Thiên Lãnh.
          “Ai bước qua, ai bước qua Cầu Ma Thiên Lãnh
Hãy dừng chân ngắm cảnh quốc hờn
Do quân thù tàn bạo gây nên
Ai đã trong mà lòng không hờn
Ai nghe đến mà lòng không căm giặc pháp
Quân pháp kia, quân pháp kia là loài tham tàn.
Gây oán thù vạn thuở khôn nguôi
Mau đứng lên mau đứng lên người dân yêu nước.
Giết thù chung dắt dìu giống nòi
Ra khỏi cảnh bùn lây điêu linh
Bao máu sương bao máu sương trong lao tù còn gây oán hờn, gây mối thù vạn thuở khôn nguôi.”

DI TÍCH BIỆT LẬP CHUỒNG BÒ

Chuồng bò là một sở tù nuôi bò thịt, bò sữa, dê, ngựa, heo, gà vịt, bồ câu, có lúc kiêm việc làm rẩy với tên gọi kép mà trước đây thường gọi là sở rẩy – chuồng bò, sở củi – chuồng bò. Nhưng người ta gọi tắt là Chuồng Bò.
Chuồng Bò có một trại giam phụ, xây khá chắc chắn vào năm 1930, trên khu đất rộng 4110 m2 làm nơi tạm giam số tù nhân làm ở sở này. Cạnh đó còn có 24 hộc để nuôi chứa heo nên có người còn gọi là Chuồng Heo, đối diện có hai chuồng nuôi bò cùng với một hầm chứa phân và nước thải từ chuồng nuôi bò cũng được xây khá kiên cố.
Sang thời mỹ ngụy khoảng cuối năm 1969 địch đã đưa tù chính trị chống chào cờ bị còng xiềng cầm cố lâu ngày, bị teo cơ bại liệt cả hai chân về giam ở đây.
Sau khi chuồng cọp bị phát hiện chuồng bò được gấp rút sửa chửa dẹp bỏ 24 hộc chứa heo và xây dựng lại gồm 3 khu A< B< C, tổng cộng có 33 phòng biệt giam.
Chuồng bò lúc bấy giờ là một chi nhánh trực thuộc trại IV biệt lập dưới quyền của tên giám thị ác ông Lê Văn Khương phụ trách.
Phát huy triền thống đấu tranh kiên cường, lưc lượng tù bại liệt tiếp tục đấu tranh, chống chào cờ, chống nội qui khắc nghiệt của nhà tù. Họ đã bị đánh đập bỏ đói bỏ khát và không được ăn rau trong nhiều tháng.
Từ năm 1973 chuồn bò là văn phòng của tiểu ban điều tra khai thác thuộc ban chuyên môn những người tù bị lộ mặt trong hoạt động đấu tranh bị đưa về đây để khai thác. Ban chuyên mộn áp dụng nhiều hình thức điều tra tàn bạo như : đánh đập bằng củi giòn, nẹp hai thanh tre vào ống chân. ..v..v… nhiều tù nhân đã bị bại liệt tàn phế bởi đoàn tra tấn và chế đọ đày ải dã mang ờ chuồng bò. Đây cũng là trại giam được mở cửa giải phóng sau cùng trong ngày 1/5/1975 (08h30 sáng)
HẦM PHÂN BÒ : theo lời kể của một số cựu tù chính trị côn đảo thời mỹ ngụy : “ngày giải phóng nhà tù côn đảo 1/5/1975 đã phát hiện còn hai người tù bị phạt ngâm mình trong hầm phân” sự kiện này đã được ban quản lý di tích lịch sử cách mạng côn đảo và các nhà nghiên cứu lịch sử nhà tù côn đảo tiến hành sưu tầm tư liệu và nhân chứng cũng như bằng chứng cụ thể.

DI TÍCH : TRẠI VII” CHUỒNG CỌP KIỂU MỸ

Tổng diện tích :25.788m2 tên gọi đầu tiên là trại VII, sau đó gọi là trại phú bình . bao gồm 04 khu AB,CD,EF, GH.mỗi khu có hai dãy ,mỗi dãy có 48 phòng bịêt lập ,trên có song sắt tương tự như chuồng cọp pháp nhưng không có hành lang bên trên .thay vào đó là mái tôn rất thấp ,trời hắt xuống như thêu như đốt .dưới thì không có xây bệ ,tù nhân nằm dưới nền nhà hứng chịu khí ẩm uớt ,khí đất xông lên khi chuyển về khuya .tù nhân phải tiểu tiện vào thùng gỗ ,mỗi khi tù nhân đấu tranh chúng phạt không cho đổ thùng vệ sinh ,03 hôm-5 hôm ,một tuần lễ hoặc lâu hơn nữa …phân và nước tiểu bê bết trên mình của 8-10 người tù trong một vùng biệt giam chưa đuợc 5m2 .khi ấy nhà giam đã biến thành nhà cầu .sống trong cảnh ấy ngày này qua ngày khác thì chẳng khác nào sống trong địa ngục .chưa kể buổi trưa nắng nóng trêu đốt cùng với mùi ô uế xông lên ,bọn phục vụ mở cánh cửa sắt ra kiểm tra rồi đóng dập lại thật mạnh ,tiếng kêu dội lên đinh tai nhức óc khi chúng lần ,ượt kiểm tra 48 phòng giam trong một dãy ,và liên tiếp 8 dãy với 384 lần dội vào đầu ,vào lồng ngực của tù nhân.
Đúng là một trại gaim điển hình kiểu mỹ, do chuyên gia mỹ thiết kế thầu mỹ xây dựng (hãng thầu RMK) bằng đola mỹ viện trợ. Đây là trại giam khắc nghiệt nhất trong giai đoạn cuối cùng của nhà ngục này mỹ ngụy dùng cả yếu tố bất lợi của thiêng nhiên vào việt đày ải con người. Chưa cần đến đòn roi chuồng cọp mỹ đã hành hạ người tù rất tinh vi, chết dần chết mòn bởi lối kiến trúc mỹ nên còn được gọi là “chuồng cọp kiểu mỹ” cùng với trại VI khu B, trại VII là nơi tập trung số tù chính trị chống đối, trở thành trung tâm phong trào đấu tranh của tù chính trị côn đảo trong giai đoạn này.
Đây là nơi khở đầu và trung tâm chỉ đạo cuộc nổi dậy giải phóng côn đảo, khi nghe tin tổng thống dương văn minh đầu hàng ngụy quân ngụy quyền côn đảo hoang mang tháo chạy, những người tù ở trại VII đã quyết định hành động chóp thời cơ giải phóng vào lúc1h00 sáng ngày 1/5/1975 tù nhân ở trại phú bình đã hoàn toàn giải phóng, đảo ủy lâm thời được thành lập tại đây ngay sau đó và lần lượt giải phóng các trại. Đến 8h30 ngày 1/5/1975 tù nhân tù chính trị đã hoàn toàn giải phóng côn đảo chấm dứt cảnh địa ngục trần gian sau 113 năm từ năm (1862 – 1975)

DI TÍCH BANH MỘT TRẠI PHÚ HẢI:
Trung tâm cải huấn phú hải – trại phú hải, đây là một trại giám lớn và cổ nhất của hệ thống nhà tù côn đảo do thực dân pháp xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 19.
Tên gọi đầu tiên là banh I, sang thời mỹ ngụy gọi là lao I, sau đó đổi tên là trại cộng hòa, trại hai, và tên gọi cuối cùng là trại phú hải tên gọi này được sử dụng từ tháng 11/1974.
Sau hiệp định paris ký kết trong âm mưu ém dấu tù chính trị không trao trả, địch cho đổi ten gọi tất cả các trại giam ở côn đảo, mỗi trại đều được ghép với chử phú và hệ thống nhà tù côn đảo trực thuộc TTCH Phú Hải.
Ngày 28/11/1861, thực dân pháp chiếm quần đảo côn đảo, sau đó hai tháng thống đốc bonard ở nam kỳ ban hành nghị định thành lập khu giam cầm tại côn đảo, lập tức ở vị trì này họ cho xây lên một dãi nhà ngục nhưng tạm thời bằng vách đất, mái tranh và 50 tù nhân có án từ một đến mười năm bị đưa ra côn đảo giam vào đây vào đầu tháng 3/1862. sau đó ba tháng vào đêm 28/6/1862 50 tù nhân đã kết hợp với hơn 100 quan lính triều nguyễn làm cuộc khởi nghĩa nổi dậy đốt phá trại giam, đánh đuổi khoảng một chục tên cai ngục pháp phải bỏ chạy xuống một chiếc thuyền nhỏ về nước.
Nhưng sau cuộc khởi nghĩa số nghĩa binh này không tìm được phương tiện về đất liền nên hai tuần lể sau thực dân pháp phái một thông hạm Norazaray đến côn đảo tàn sát số nghĩa binh, họ giết chết hơn 100 người và bắt sống 20 tù nhân. Họ buột 20 tù nhân này phải mang hơn 100 xác chết lên trên một đồi cát chôn chung một mồ, sau đó họ chôn sống luôn 20 tù nhân ở đó (di tích bãi sọ người).
Sau đó thực dân pháp có kế hoạch cho xây dựng một nhà ngục kiên cố với tổng diện tích là 12015 m2 có tường dày bao bọc bên ngoài.
1896 đã hoàn tất bao gồm :hai dãy khám giam được xây đối diện nhau, mỗi dãy 5 khám (đánh số từ trái sang phải 1-10), phía cuối sân, nối qua hai dãy khám có 20 hầm đá (còn gọi là xà lim) cuối dãy khám giam bên trái còn có một phòng giam “ tù đặc biệt”. Kế đó là “hầm xay lúa”, vừa là nơi khổ sai xay lúa, vừa là nơi đày ãi trừng phạt ngiệt ngã đối với tù nhân. Ơ góc cuối bên phải còn có một khu đất trống dùng để phạt tù nhân khổ sai đập đá. Đây cũng là nơi dành cho những tù nhân bị ghép vào thành phần nguy hiểm, có thể vượt ngục bất cứ lúc nào.vì thế nên họ không dám cho đi làm khổ sai ở các sở tù bên ngoài.
Bình quân ở trên đỏa có khỏang 18 sở tù khổ sai, háng ngày họ đưa tù nhân đi làm các công việc khổ sai ờ các sở này, chiều về đến trước cửa phòng giam tù nhân phải cởi hết quần, áo cho cai ngục khám xét, cứ trần truồng như thế nằm ngủ. Nơi đây còn là hiện thân của “địa ngục trần gian” những công việc khổ sai như:xuống biển mò lấy san hô mang lên nung thành vôi bột, đến việc lên rừng khai thác đá, khéo gỗ, dọn tàu… còn rùng rợn hơn cả cái chết.
Sang thới mỹ ngụy để đánh lừa dư luận trong và ngòai nước, mỹ ngụy cho xây dựng:nhà nguyện, giảng đường, câu lạc bộ , nhà ăn, phòng hớt tóc….và cho chuyển “hầm xay lúa” thành bệnh xá của trại giam.Sân trại còn được trồng hoa kiểng như một công viên. Đây là một công trình vừa mang tính hình thức để đối phó với dư luận vừa dùng để mua chuộc dụ dỗ tù chính trị ly khai, tố cộng…
Có thể nói, tất cả các lớp tù từ thuở Cần Vương, Văn Thân chống pháp, đến nhiều chiến sỹ cách mạng việt nam, tiếp đến thế hệ nam nữ sinh viên học sinh xuống đường biểu tình chống mỹ –thiệu đều trải qua những năm tháng tù đày khóc liệt tại đây.
Phòng 6-còn được gọi là phòng chết điển hình: thời mỹ –ngụy, từ 1957 đây là nơi khởi đầu cuộc chiến tranh chống ly khai đảng cộng sản của tù chính trị câu lưu(không án);ngọn cờ đầu của phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị côn đảo. Địch đã thực hiện âm mưu phân hóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng âm mưu đó thất bại nên họ đã ra sức đàn áp dã man những người tù chính trị, do đó mà người tù hy sinh ở đây rất nhiều. Chính vì vậy, phòng giam này vào thời mỹ ngụy được gọi là “phòng chết điển hình”
Năm 1995, để kỷ niệm 20 năm ngày Côn Đảo giải phóng,bộ văn hóa thông tin giao cho công ty mỹ thuật TW phục chế lại mô hình tượng nhằm tái hiện lại cảnh sống và sinh hoạt của tù nhân (thời thực dân pháp) trong 24 tiếng đòng hồ . Phòng giam lúc bấy giờ giam trung bình từ 80-120 tù nhân, nhưng sang thời mỹ ngụy số tù chính trị bị đày ra Côn Đảo ngày càng nhiều nên số lượng tù nhân tăng lên 100-150 người, lúc cao điểm lên đến 180 người.Những lúc ấy tù nhân nằm trên bệ không đủ phải nằm trên nền nhà. Khắc nghiệt nhất là lúc phạt cấm cố (xiềng chân) người tù nằm ở dưới bệ phải chịu cảnh treo chân lên thanh sắt.Thêm nữa là khi bị xiềng chân cấm cố tù nhân phải đi vệ sinh tại chổ vào một thùng gổ. Trên mỗi bệ ximăng có bố trí thùng gỗ để người tù đi vệ sinh và đây cũng là điều rất khắc nghiệt, bởi vì người nào có nhu cầu đi vệ sinh phải đánh thức những người bạn tù thức dậy hết để chuyển htùng gổ này lần lượt đến tay họ do đó mà suốt đêm tù nhân khó cóthể ngủ yên giất (thường là mỗi bệ chỉ bố trí có nột thùng)
Phòng số 7: đây là nơi chi bộ đảng cộng sản đầu tiên trong nhà tù côn đảo ra đời cuối năm 1932 tại banh I, sau phát triển thành đảng ủy côn đảo,lãnh đạo cuộc đấu tranh của tù nhân với sự đóng góp xuất sắc của đồng chí nguyễn hới, tôn đức thắng, ngô gia tự, trần quan tặng, nguyễn chí diểu, lê văn lương, nguyễn duy trinh…..
Banh I cũng là nơi dnhững người cộng sản mở lớp học văn hóa, lý luận, chính trị. Đặc biệt là khóa học chủ nghĩ lênin theo chương trình huấn luyện của đại học phương đông(liên xô) do giáo sư trần văn giàu phụ trách. Tờ báo tiến lên (tiếng nói của hội tù nhân) và tờ ý kiến chung (cơ quan lý luận của tù chính trị)từ cuối năm 1935 cũng chuyển từ banh II về banh I.
*phòng 9 : nơi đây từng giam giữ đồng chí tôn đức thắng, võ sỹ, võ thúc đồng,…. Và cũng là nơi biên soạn tạp chí “ý kiến chung”. Ngày đầu tiên bác tôn đức thắng bị đày ra côn đảo bị đưa vào khám giam này(2/7/1930).
*phòng 10: thời mỹ ngụy vào năm 1958 trong đợt chống học tập tố cộng địch đã đàn áp dã man 175 người tù chính trị trong âm mưu phân hgóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng địch đã không thực hiện được.
*phòng giam tù đặc biệt: ngoài 10 phòng giam ra còn có 1 phòng giam dành cho tù đặc biệt nằm phía sau câu lạc bộ. Thời pháp đã dùng nơi đây giam giữ những người làm khổ sai hàng ngày ở hầm sai lúa trong đó có bác tôn, phạm hùng,lê văn lương, ngô gia tự……sau đó (1946)thực dân pháp giam giữ 46 người tù có án tử hình đầu tiên.
Đến năm 1957, mỹ ngụy đã đưa ra 41 phụ nữ chống ly khai, tố cộng (đã có thành tích từ các nhà lao ở đất liền đưa ra côn đảo.
Sau đó năm 1958 – 1960, giam giữ đàn áp dã man cán bộ cốt cán chống học tập tố cộng ly khai đảng cộng sản.
*hầm xay lúa: thời thực dân pháp đây là một căn phòng xây tường đá bao vây, ở trên có một lớp trần làm bằng vải đen, bao tời,… và chỉ có một cửa đi thông qua phòng giam đặc biệt (không có cửa thông gió như hiện nay) trong căn nhà bịt kín này được bố trí 5 cối xay lúa. Cối xay được làm bằng vỏ thùng rượu vang cưa đôi ra và lèn đất sét bên trong nên rất nặng mỗi cối phải có từ 4 đến 6 người mới kéo nổi. Từ công việc kéo cối xay, vác lúa gạo…..người tù làm khổ sai ở đây còn phải chịu htêm cực hình nữa là hai người bị xích chung một sợi dây xích có lê theo một quả tạ (quả tạ nặng trung bình từ 3-7kg). Có thể noi đây là nhà tù trong nhà tù.
sang thời mỹ ngụy, để đánh lừa dư luận địch cho dẹp cối xay và chuyển thành bệnh xá. Bệnh xá ở nhà tù côn đảo được xem như một nhà xác. Tù nhân được chuyển đến đây để nằm chờ chết. Chưa kể trong chiến dịch đàn áp tù nhân chống ly khai địch dùng bệnh xá để mua chuộc dụ dỗ người tù trong cơn hấp hối.Một cái lắc đầu(không chấp nhận ly khai) lập tức mũi thuốc bơm bỏ xuống đất.Hoặc phát thuốc súng không đúng bệnh, bất kể bệng gì cũng phát một loại thuốc- thuốc ký ninh (thuốc trị bệnh sốt rét).
Khu xà lim: xà lim còn gọi là hầm đá, gồm có 20 hầm đá.địch sử dụng những xà lim này để biệt lập, cấm cố và đày ảinhững người tù bị ghép vào thành phần huy hiểm, ngoan cố, chống đối...hay những người vượt ngục bị bắt lại. Họ bị chốt chặt chân vào còmg ssuốt ngày đêm, kể cả lúc ăn cơm và đi vệ sinh cho đến khi nào mãn hạn nằm hầm mới được cởi bỏ chiếc cùm ra(nếu nặng thì chốt cả hai chân). Trong 10 ngày đầu bị phạt ở xà lim người tù phải ăn cơm nhạt, uống nước lã(mặc dù thức ăn ở nhà tù côn
đảo chỉ là khô, tương, mắm...để lâu ngày bị mục đắng, ôi chua...)
Hầm xây bằng đá cao hơn 2m, trần xây cuốn, ở đây nhà tù có cảm giác như bị nhốt vào nhà mồ, vào mùa nắng nóng bức thì hơi nóng hầm hập suốt ngày, mùa đông hơi đá toả ra lạnh thấu xương, cửa xà lim bằng gỗ or sắt dày, đóng vào là kính như hủ nút, chỉ được hé vội một chút khi cai ngục mang cơm đến, hay dội cho một thùng nước vào buổi sáng cuối tuần (gọi là được tắm),người tù bị nhốt vào xà lim ít lâu là người héo quắt lại “mắt mờ, bại liệt”.
Xà lim đôi: bên cạnh những xà lim đơn còn có những xà lim đôi, ở đây có thể giam một luc’0-30 người, cốt để cho người tù nóng bức, ngột ngạt vì thiếu không khí...làm kiệt sức và hao mòn sinh lực tù nhân, mặt khác muốn đánh vào tâm lý người tù bị cấm cố ở xà lim đơn, sẽ cảm thấy cô độc, không có bạn bè, đồng đội để chia sẻ, tâm sự hay chăm sóc như thế ý chí họ sẽ bị rạn nứt...
Xà lim số 9: còn lưu lại bốn câu thơ  của người tù tên Huỳnh Văn Chẩn bị đưa vào hầm đá ngày 14/12/1958.
“Người cách mạng chịu nhiều gian khổ
Dẫu gian lao nhưng vẫn coi thường
Bền chí vững lập trường
Vượy qua gian khó trên đường quang vinh”
Nhà ăn : đây cũng là hình thức trá hình của mỹ ngụy. Từ khi xây dựng nhà ăn này (1963) cho đến ngày nhà tù được giải phóng, không một người tù nào được đến đây ăn cơm( kể cả tù thường phạm).
Khu đập đá : các cụ phan chu trinh, huỳnh thúc kháng, ngô đức kế, đặng nguyên cẩn...đã từng khổ sai đập đá tại đây.
Năm 1918 ông tú phạm cao chẩm một nhân sĩ yêu nước ở quảng ngãi và người thanh niên nguyễn trọng thạc, một tướng tài, con trai của cụ nguyễn thiện thuật, thủ lĩnh nghĩa quân bãi sậy đã hi sinh tại đây cùng 81 người tù khổ sai trong cuộc nổi dậy ngày mồng 4 tết (mậu ngọ), dưới làn đạn súng máy của tên bạo chúa andouard chỉ huy bắn giết.
Đây cũng là nơi chiến sỹ yêu nước phan chu trinh sáng tác bài thơ đập đá côn lôn(được đưa vào văn học vn).
Làm trai đứng giữa đất côn lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập vỡ mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con non.
Sang thời mỹ nguỵ nơi đây được chuyển làm trại mộc.
*phòng số 3: thời mỹ ngụy đã giam cầm lần lược 250 tù tử hình (theo luật 10/59 cũa diệm ban hành). Đây cũng là nơi xảy ra cuộc vượt ngục hiếm thấy ở nhà tù côn đảo.
Vào đêm 12/10/1966, đồng chí lê văn việt (ttên trong tù là nguyễn văn hai) chiến sĩ biệt động sài gòn, người đã từng làm chân động thủ đô sài gòn trong trận đánh sập tòa đại sứ mỹ năm 1965, cùng với chiến sĩ đặc công phạm văn dẩu và sinh viên yêu nước lê hồng tư đã dũng cảm trổ máy ngói khám tử hình vượt ngục tuy cuộc vượt ngục bất thành trong vòng 10 ngày sau ba người tửtù điều bị địch bắt lại song cuột vượt ngục ấy đã làm rung động bộ máy cai trị nhà tù côn đảo, địch phải gấp rút cho giăng dây thép gai kín trên nóc các phòng giam.
Banh I : là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Hầu như mỗi mảnh đất côn đảo đều khắt sâu nổi cực nhọc và thấm máu của người tù khổ sai. Trong sự đọa dày khốn cùng, những người cộng sản, những người yêu nước việt nam ở đây phải quyết định vân mênh hoặt là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đâu tranh để sống trở vê tiếp tục hoạt động cách mạng họ phải chống chọi cả một bộ máy khủng bố từ tên chúa đảo đến đám gát ngục và bọn cập rằng tay sai. Điều đó đòi hỏi những người tù cổng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẻ, hình thức đấu tranh thích hợp.
Trước cách mạng tháng tám 1945 một chi bộ đặc biệt được thành lập tại đây đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu của người chiến sĩ cách mạng trong nhà tù và lòng trung thành với đảng được đặc lên hàng đầu.
Tiếp theo lời kháng chiến chống pháp, những người tù chính trị ở banh một đã tổ chức ra liên đoàn tù nhân côn đảo (1947) và đảng ủy nhà tù (1950), sau gọi là đảo ủy. Liên đoàn tù nhân được tổ chức chặc chẻ ở từng trại từng phòng từng kiếp tù cho đến tận mâm ăn, tổ nhóm, giống như một cơ quan quyền lực của tù nhân.

Banh một đã trãi qua 113 năm với bề dày lịch sử ngang tuổi nhà tù còn lưu lại nhiều dấu ấn anh hùng trong cuộc đấu tranh lâu dài và bất khuất của những người yêu nước và cách mạng việt namtrong nhà tù thực dân đế quốc.